Author - Cokhithanhloc Việt Nam

Chính thức có KCN chuyên sâu Việt Nam – Nhật Bản

Công văn 109/VPCP-QHQT của Văn phòng Chính phủ đồng ý chọn Khu công nghiệp (KCN) Phú Mỹ 3 tại Bà Rịa – Vũng Tàu làm KCN chuyên sâu Việt Nam – Nhật Bản, ban hành ngày 7/1/2014 đã bước đầu cụ thể hóa chủ trương của Chính phủ về hợp tác Việt Nam – Nhật Bản, mà trong đó Bà Rịa – Vũng Tàu là một trong những địa phương được chọn làm điểm nhấn.

Chú trọng thu hút đầu tư công nghiệp hỗ trợ

Điều đó sẽ góp phần giúp Bà Rịa – Vũng Tàu sớm thực hiện được giấc mơ trở thành trung tâm công nghiệp hỗ trợ. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là lực lượng chủ chốt để cung cấp các sản phẩm trung gian cho các doanh nghiệp có quy mô lớn, trình độ công nghệ cao.

Khu công nghiệp Phú Mỹ 3 có thể thu hút đầu tư thuộc nhiều ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ảnh: M.L

KCN chuyên sâu Việt Nam – Nhật Bản sẽ thu hút các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và các doanh nghiệp quy mô lớn, trình độ công nghệ cao.

Việc KCN Phú Mỹ 3 được Chính phủ đồng ý chọn để xây dựng KCN chuyên sâu Việt Nam – Nhật Bản đã giúp Bà Rịa – Vũng Tàu có cơ sở để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản là được đầu tư vào các KCN có đầy đủ các tiện ích, phù hợp với văn hóa và thói quen của người Nhật.

KCN Phú Mỹ 3 được quy họach và thiết kế bởi các công ty của Nhật và đã khởi công xây dựng từ tháng 6/2013. KCN Phú Mỹ 3 có thể thu hút đầu tư thuộc nhiều ngành từ công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, như hóa dầu, hóa chất, vật liệu cơ bản, công nghiệp hỗ trợ, cơ khí chế tạo, khuôn mẫu…

Theo bà Nguyễn Thị Thảo Nhi, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thanh Bình Phú Mỹ, chủ đầu tư KCN Phú Mỹ 3, trong tổng số diện tích 999 ha của KCN này, có 200 ha của giai đoạn đầu sẽ được ưu tiên triển khai xây dựng hạ tầng và chủ đầu tư sẽ cố gắng hoàn thiện trước 70 ha để có thể bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư xây dựng nhà xưởng vào quý III/2014. Hạng mục trạm xử lý nước thải công suất 13.500 m3/ngày đêm sẽ được hoàn thiện vào quý II/2015 để phục vụ các nhà máy khi đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, Công ty cũng đang tích cực hợp tác với nhà đầu tư chiến lược của Nhật Bản có năng lực và kinh nghiệm quản lý khai thác KCN để cùng phát triển thành công KCN chuyên sâu này. Cũng trong chương trình thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, cụm công nghiệp (CCN) Đá Bạc, với diện tích 75 ha, đã khởi công từ tháng 5/2013. Đây là bước tiến mới trong việc thực hiện nội dung thỏa thuận hợp tác kinh tế giữa Bà Rịa – Vũng Tàu với TP. Kawasaki (Nhật Bản).

Ông Hồ Văn Niên, Phó chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng, cũng như chủ đầu tư KCN Phú Mỹ 3 và CCN Đá Bạc về việc xây dựng và áp dụng cơ chế “một cửa” để hạn chế phiền hà về mặt thủ tục, hỗ trợ tối đa cho nhà đầu tư, bao gồm hỗ trợ thành lập công ty và xin cấp giấy phép đầu tư, hỗ trợ dịch thuật, thủ tục xuất nhập khẩu, thông quan, logistics, kho bãi, hỗ trợ tuyển dụng và quản lý nguồn nhân lực, hỗ trợ nghiệp vụ kế toán, thủ tục kê khai thuế…

Xây dựng trung tâm logistics tầm cỡ khu vực

Hiện nay Bà Rịa – Vũng Tàu đã có 52 dự án cảng, trong đó, có 26 cảng đang hoạt động với tổng công suất khoảng 76,5 triệu tấn hàng hóa/năm, 9 dự án cảng đang triển khai xây dựng, 17 cảng đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Hầu hết các cảng nước sâu này đều tập trung ở khu vực sông Thị Vải – Cái Mép, rất thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ cảng, vận tải biển, dịch vụ logistics. Theo Cục Hàng hải Việt Nam, lượng hàng hóa thông qua các cảng biển khu vực này dự kiến chiếm ít nhất 50% tổng lượng hàng hóa qua các cảng biển cả nước. Hệ thống Cảng quốc tế tại Cái Mép – Thị Vải được đánh giá là cảng trung chuyển nước sâu hiện đại, được đầu tư đồng bộ, có vị trí địa lý thuận lợi vào bậc nhất ở Đông Nam Á để tiếp nhận tàu container có trọng tải lên đến 100.000 DWT, với công suất 600.000 – 700.000 TEU/năm.

Theo kế hoạch, sau năm 2015, toàn bộ cảng biển tại khu vực sông Sài Gòn sẽ được di dời đến khu vực sông Cái Mép – Thị Vải.
Bộ Giao thông – Vận tải đã cho phép một số hãng tàu nước ngoài chuyên chở hàng xuất khẩu từ Hải Phòng, Quy Nhơn, Đà Nẵng vào chuyển tải qua tàu mẹ chính hãng ở hệ thống cảng Cái Mép – Thị Vải. Điều này có nghĩa là nguồn cung hàng hóa từ miền Bắc, miền Trung sẽ vào Cái Mép – Thị Vải, thay vì trước đây trung chuyển qua Singapore, Hồng Kông, Malaysia…
Cụm cảng Cái Mép – Thị Vải cũng đã trung chuyển hàng hóa từ các nước Đông Nam Á, nhiều nhất là từ Campuchia, năm 2013 đạt khoảng 100.000 TEUs. Dự báo, khối lượng hàng trung chuyển từ thị trường Campuchia tăng khoảng 50%/năm.
Ông Hồ Văn Niên cho biết, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng sớm hoàn thành xây dựng Trung tâm Kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu tập trung tại khu vực Cái Mép, triển khai thủ tục hải quan điện tử; phối hợp với các bộ, ngành đẩy nhanh tiến độ đường liên cảng Thị Vải – Cái Mép, đầu tư xây dựng các tuyến trục chính kết nối như đường 991B, đường Phước Hòa – Cái Mép. Từ nay đến năm 2020, Bà Rịa – Vũng Tàu sẽ xây dựng Trung tâm Dịch vụ logistics có quy mô hiện đại, đầu tư đồng bộ, ngay phía sau khu cảng Cái Mép và khu dự trữ Sao Mai – Bến Đình.

Trong Đề án Phát triển dịch vụ logistics tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2011-2020, định hướng 2030, có 5 chương trình trọng tâm, bao gồm: Quy hoạch tổng thể phát triển dịch vụ logistics; Quy hoạch xây dựng các trung tâm logistics; Phát triển tổng thể cơ sở hạ tầng giao thông – vận tải và hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển logistics và Xây dựng cơ chế chính sách phát triển dịch vụ logistics. Tỉnh đang xem xét quy hoạch xây dựng Trung tâm Logistics Cái Mép Hạ với mục tiêu xây dựng một trung tâm logistics tầm cỡ khu vực, trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống logistics toàn cầu.

Phát triển công nghiệp phụ trợ: Kinh nghiệm từ Nhật Bản

Hiện nay, công nghiệp của Việt Nam phần lớn đang là những ngành công nghiệp gia công như dệt may, giày dép… và lắp ráp như ôtô, xe máy, thiết bị điện và điện tử… Tuy nhiên, chúng ta chủ yếu đang thực hiện ở khâu gia công, lắp ráp. Tỷ lệ cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của một số ngành trọng điểm như ôtô là 20-30%, da giày, dệt may là trên 10%…. Điều này dẫn đến hệ quả là là giá trị gia tăng thấp, năng lực cạnh tranh của DN kém… Theo ông Trương Đình Tuyển – nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam: “Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa phát triển”.

Theo dẫn giải của các chuyên gia Nhật Bản, nhiều thương hiệu lớn của Nhật Bản trên thế giới như Panasonic, Honda cũng bắt đầu xây dựng thương hiệu của mình nhờ việc phát triển những ngành công nghiệp phụ trợ như bóng điện xoay, động cơ của xe đạp điện… Ông Sugiyama Hideji khẳng định: “Gọi là công nghiệp phụ trợ nhưng những ngành này không “phụ” chút nào mà nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển công nghiệp”. Lấy ví dụ như để sản xuất và lắp ráp một chiếc ôtô cần hàng nghìn bộ phận và linh kiện. Sản xuất ốc vít cho ôtô – mới nghe tưởng như một khâu rất nhỏ. Tuy nhiên, đó lại là một lĩnh vực đầy tiềm năng, bởi đây là một bộ phận không thể thiếu để sản xuất một chiếc ôtô hoàn chỉnh. Với hàng trăm con ốc vít cho 1 chiếc ôtô – không ai có thể phủ nhận rằng đây là một ngành mang lại lợi nhuận và có thể chú trọng đầu tư phát triển.

Bên cạnh đó, nền công nghiệp của nước ta còn khá manh mún và nhỏ bé. Ông Trương Đình Tuyển nhận định: “Với tình trạng phải nhập khẩu linh kiện, phụ tùng cho sản xuất công nghiệp như hiện nay thì nguy cơ các DN lắp ráp và sản xuất sản phẩm cuối cùng có thể rút khỏi Việt Nam do không tìm được nguồn cung cấp linh kiện, phụ tùng tại chỗ, nhất là khi sức ép về chi phí tiền lương tăng lên. Cho nên, cần phải nhanh chóng phát triển công nghiệp phụ trợ”./.

Kinh nghiệm của Nhật Bản – bài học cho Việt Nam

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia tại buổi tọa đàm, Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển những ngành công nghiệp phụ trợ, đặc biệt là các ngành có tiềm năng xuất khẩu cũng như có chỗ đứng khi mức sống của người dân tăng lên như hóa dầu, chế biến nông sản xuất khẩu, kinh tế biển, công nghệ thông tin, ôtô… Và để phát triển công nghiệp phụ trợ, Việt Nam cần một lộ trình và cần phát triển 4 yếu tố quan trọng là nguồn nhân lực, công nghệ, tài chính và hệ thống phân phối.

Để phát triển được 4 yếu tố này, theo ông Yonemura Noriyuki, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn quản lý Doanh nghiệp nhỏ và vừa Nhật Bảncho biết: “Đối sách cho giải quyết những vấn đề này là phải nhanh chóng chỉ ra các ngành cần phát triển và đưa ra các biện pháp để thúc đẩy phát triển”. Cụ thể, đối với vấn đề vốn, Việt Nam có thể sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi để xây dựng một quỹ tài chính đảm bảo cho việc phát triển công nghiệp phụ trợ của những ngành đã được chỉ định. Việc chỉ định các ngành cần phát triển là việc chỉ rõ các phạm vi ưu tiên để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch. Minh bạch được khâu này cũng sẽ giúp các DN thu hút đầu tư.

Bên cạnh đó, việc tăng nhu cầu nội địa là một trong những việc quan trọng nhất nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, để đảm bảo có thể thu được lợi nhuận cao nhất cũng như xây dựng được một thị trường nội địa phát triển thì cần quan tâm đến hệ thống phân phối. Hệ thống phân phối có thể cung cấp đầy đủ, dễ dàng những nhu cầu về linh kiện cho những DN có nhu cầu sẽ góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ.

Nhân lực là vấn đề sống còn cho phát triển bất cứ một ngành nào, vì vậy để phát triển công nghiệp phụ trợ, cần phải xây dựng được một đội ngũ kỹ sư lành nghề, có khả năng sản xuất nguyên phụ liệu hoặc nghiên cứu công nghệ để đưa công nghiệp phụ trợ phát triển. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho Việt Nam trong vấn đề này là áp dụng những biện pháp khuyến khích đào tạo và học tập ngành công nghiệp phụ trợ như đưa ra những chính sách khen thưởng, chứng chỉ cho các cá nhân có quá trình học tập tốt, có tay nghề cao. Chứng chỉ này sẽ giúp công nhân, kỹ sư được nâng lương hoặc nâng cao vị trí trong công ty.

Riêng với yếu tố công nghệ, vai trò của Chính phủ trong việc vấn đề này là yếu tố quan trọng. Để có được công nghệ hàng đầu thế giới như hiện nay, Nhật Bản đã phải đặt ra mục tiêu, ngân sách để phát triển công nghiệp hỗ trợ cho từng ngành.

Nhìn xa hơn, đối sách trung hạn cho nhiều năm nữa, theo kinh nghiệm từ Nhật Bản là Việt Nam cần xây dựng Luật phát triển công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện tử… để đưa ra các biện pháp tổng hợp, có hệ thống và quy trình cụ thể như phát triển kỹ thuật, đào tạo nhân lực, hỗ trợ tài chính, bảo đảm vị trí, khai thác thị trường… Ông Yonemura Noriyuki khẳng định: “Nhật Bản có kinh nghiệm, chuyên gia giỏi và sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam trong việc phát triển các yếu tố này”./.

(trích nguồn: baodautu.vn)

DN Nhật thúc Việt Nam phát triển công nghiệp phụ trợ

Ông Yasuzumi Hirotaka, đại diện Tổ chức xúc tiến thương mại và Đầu tư Nhật Bản (JETRO) cho biết, kết quả khảo sát vừa được JETRO thực hiện với các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam cho thấy, chi phí sản xuất trong đó giá nhân công tại Việt Nam chiếm 18,3%; chi phí nguyên vật liệu chiếm 62,4% và các chi phí khác là 19%.

Sản phẩm công nghiệp phụ trợ của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu

“Vấn đề cung ứng nguyên vật liệu chiếm tới 62,4% cần phải nghiên cứu để giải quyết”, ông Yasuzumi Hirotaka nói.Theo ông Yasuzumi Hirotaka, nếu so sánh với các nước lân cận thì thấy rằng, khả năng cung cấp nguyên liệu tại chỗ của Việt Nam mới chỉ đạt 27,9%, so với Thái Lan, Trung Quốc thì Việt Nam mới bằng một nửa.

Cụ thể, tỷ lệ cung ứng công nghiệp hỗ trợ cho doanh nghiệp Nhật Bản tại khu vực miền Bắc của Việt Nam mới chỉ đạt 9,1%, thấp hơn so với miền Nam là 16,8%. Trong khi đó, tỷ lệ cung ứng nguyên liệu phụ trợ của Thái Lan là 52%, Indonesia là 45%.

“Hiện nay thị trường nội địa của Việt Nam về công nghiệp phụ trợ vẫn còn bé, vì vậy cần cân nhắc kết hợp với Thái Lan để doanh nghiệp Nhật Bản tại Thái Lan có thể hỗ trợ chuỗi cung ứng nguyên phụ liệu cho doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam. Chúng tôi đề xuất chuyển công nghiệp hỗ trợ từ Thái Lan đến TP.HCM”, ông Yasuzumi Hirotaka nói thêm.

Đồng quan điểm, ông Jinjiro Kimura, Tổng Giám đốc công ty TNHH Unika Việt Nam (trụ sở đạt tại Khu chế xuất Tân Thuận, Quận 7, TP.HCM) cho hay, đối với doanh nghiệp chuyên về sản xuất như Unika Việt Nam thì giá thành nguyên vật liệu chiếm tới 60% chi phí, vậy nên nếu mua được nguyên vật liệu từ thị trường Việt Nam để phục vụ sản xuất thì tốt hơn là nhập khẩu, đáng tiếc là thị trường Việt Nam chưa đáp ứng được, nên doanh nghiệp Nhật Bản gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác cung ứng.

Ông Jinjiro Kimura cũng cho biết thêm, bản thân ông kiêm chức vụ là Tổng giám đốc công ty TNHH Khu Kỹ nghệ Việt Nhật (đơn vị đầu tư Khu kỹ nghệ Việt Nhật – Vie-Pan Techno Park, sẽ khởi công ngày 17/2/2016), thời gian qua có nhiều đối tác Nhật Bản hỏi thăm ông về việc tìm đối tác cung ứng công nghiệp hỗ trợ tại thị trường Việt Nam, tuy nhiên ông vẫn chưa thể tìm được câu trả lời thỏa đáng cho họ.

Theo ông Sawada Masaaki, Giám đốc công ty TNHH Một thành viên Koganei – doanh nghiệp nhỏ và vừa Nhật Bản đang đầu tư tại Khu công nghiệp Long Hậu (tại Long An) để phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, việc thu hút thêm nhiều doanh nghiệp Nhật Bản vào đầu tư tại một khu công nghiệp, tương tự như Khu công nghiệp long Hậu đang thu hút được 40 nhà đầu tư Nhật Bản là rất quan trọng.

Ngoài vấn đề cung ứng nguyên phụ liệu, nhà đầu tư Nhật Bản còn bày tỏ một số khó khăn, vướng mắc khác họ đang gặp phải như: nguồn cung ứng điện thiếu ổn định; cơ sở hạ tầng bên ngoài khu chế xuất, khu công nghiệp còn thiếu đồng bộ; nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế và các vướng mắc về thuế, hải quan…

Trả lời những thắc mắc này của nhà đầu tư Nhật Bản, ông Vũ Xuân Đức, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Một thành viên Phát triển Công nghiệp Tân Thuận (IPC) đã cung cấp thông tin về cuộc khảo sát mà IPC vừa tiến hành đối với doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam.

Khảo sát tập trung vào hai lĩnh vực chính là gia công chế tạo và điện tử. Kết quả khảo sát 100 doanh nghiệp cho thấy, với tiêu chí về giao thông, doanh nghiệp đánh giá cao giao thông nội khu công nghiệp/chế xuất, nhưng lại bày tỏ quan ngại với tình trạng giao thông do ngập nước ở gần Khu Chế xuất Tân Thuận, hay tình trạng giao thông gồ ghề ở gần Khu công nghiệp Long Hậu…

Với tiêu chí về nguồn điện thì 25% doanh nghiệp nêu ý kiến quan tâm đến nguồn điện không ổn định, nhất là doanh nghiệp trong ngành cơ khí chính xác; tiêu chí về tuyển dụng, có 48% doanh nghiệp tham gia khảo sát quan tâm vấn đề tuyển nhân lực kỹ sư, lao động chất lượng cao gặp khó khăn.

Riêng tiêu chí về nguồn nguyên liệu công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, phần lớn doanh nghiệp cho rằng còn tương đối khó mua và khả năng đáp ứng còn hạn chế. Doanh nghiệp chỉ đánh giá cao về khả năng giao hàng nhanh.

“Nhìn chung, doanh nghiệp Nhật Bản vẫn đánh giá cao môi trường đầu tư tại TP.HCM, nhất là việc TP.HCM đã dành riêng 100 ha cho nhà đầu tư Nhật Bản tại Khu công nghiệp Hiệp Phước. Nhiều doanh nghiệp cho biết sẽ mở rộng đầu tư trong thời gian tới”, ông Vũ Xuân Đức nhận xét.

(trích nguồn: Baodautu.vn)

Chống tĩnh điện

Trong cuộc sống,tĩnh điện tồn tại ở mọi nơi và người ta không chú ý lắm đến nó do tác dụng không đáng kể. Tuy nhiên trong sản xuất, tĩnh điện lại là vấn đề lớn làm đau đầu nhiều nhà sản xuất vì những tác hại do nó gây ra cho nên người ta luôn cố gắng tìm cách chống tĩnh điện.

chong-tinh-dien

Sự cố gây ra bởi tĩnh điện

Sự phóng tĩnh điện (ESD – Electrostatic Discharge)

Tương tự như hiện tượng sét trong tự nhiên. Tĩnh điện trên bề mặt vật thể sẽ phóng các điện tích xuống đất qua trục máy tạo ra tia lửa điện. Khi tĩnh năng lượng tạo ra của tia lửa điện vượt qua điểm cháy nổ của vật liệu ( đây là các dung môi gas , xăng .. v.v bay hơi) sẽ làm phát sinh ngọn lửa gây hỏa họan.

Sự bám hút (ESA – Electro Static Atraction)

Các hạt bụi nhỏ khi gần từ trường tĩnh điện sẽ bị phân cực trái dấu. Sau đó các hạt bụi này sẽ bị hút vào bề mặt vật thể do lực hút. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm. Những tác hại thường thấy là giảm chất lượng sản phẩm, mực in bị nhiễm bẩn, bị lem khi in , kẹt máy , làm hư bản in trên ống đồng…

Tác hại đối với con người

Với một lượng điện tích rất lớn trên bề mặt vật thể , tạo ra một từ trường cực mạnh ở môi trường xung quanh . Từ trường này có tác hại về lâu dài với sức khỏe con người , trong đó , ảnh hưởng nhiều nhất là hệ thần kinh , hệ sinh dục , hệ tuần hòan. Đặc biệt lực tĩnh điện có khả năng giật người thao tác gây ra tai nạn lao động.

Tác hại của tĩnh điện trong sản xuất

Tĩnh điện trên bề mặt của vật thể, khi lớn đến mức độ thích hợp (khoảng 3000 volt) sẽ tạo ra một từ trường tĩnh điện, từ trường này sẽ tác động gây ra sự phân cực của các vật thể khi các vật thể này lọt vào trường tĩnh điện, việc phân cực này tạo ra lực hút Culon đủ lớn để hút cưỡng bức các vật thể này vào bề mặt của vật mang tĩnh điện. Hiện tượng hút bụi này ảnh hưởng tới chất lượng của các qúa trình sản xuất cần sạch bề mặt như: In ấn, lắp đặt, đóng gói thực phẩm, dược phẩm, tráng phủ, sơn, xi mạ và các qui trình sản xuất điện tử …v.v..

Bởi vậy, trong sản xuất chúng ta thường gặp phải các vấn đề khó chịu:

– Màng phim, chai lọ bị bám dính bụi, tích điện làm giảm chất lượng sản phẩm. – Các bao bì làm ra không thể xếp ngay hàng – Tĩnh điện cao gây ra tia lửa điện dẫn đến cháy nổ. Hỏa hoạn từ những nơi dễ cháy như dung môi in – Mực in bị lem ( vết chân chim, kéo râu…) – Công nhân bị điện giật gây tai nạn lao động – Phế phẩm tăng do người công nhân không muốn lại gần màng phim… – Quy trình đóng rót bị hút bụi, miệng túi bị hở – Các sản phẩm nằm không đúng vị trí vì đẩy nhau do nhiễm tĩnh điện gây phế phẩm – Kẹt màng vào các trục cuốn của máy – Và nhiều tác hại khác

Giải quyết vấn đề tĩnh điện

Các chất liệu khác nhau sẽ có những giải pháp khác nhau. Đối với các chất liệu đẫn điện thì phương pháp thường gặp nhất là nối đất trực tiếp.

Đối với những chất liệu không dẫn tĩnh điện như vật liệu tự nhiên, hỗn hợp thì chỉ có một giải pháp duy nhất là dùng ionizer. Đây là phương pháp tạo ra các ion trung hoà những vùng bị tĩnh điện, nếu không được trung hòa bởi những điện tích tự do, tĩnh điện mất đi rất chậm. Những vật liệu cách điện cho phép những nhóm điện tích âm và điện tích dương hình thành. Khi những điện tích không thể di chuyển trên bề mặt của vật liệu này, việc nối đất không thể loại bỏ những điện tích này. Sự ion hóa là phương tiện duy nhất để loại bỏ tĩnh điện ở những vật liệu cách điện. Sự ion hoá các điện tử tự do trong không khí bằng phương pháp phân cực điện áp cao tạo ra liên tục luồng điện tích âm và điện tích dương. Những điện tích này sẽ kết hợp với những điện tích trái dấu trên bề mặt của vật liệu do đó triệt tiêu được tĩnh điện trên bề mặt cách điện.

Các thiết bị chống tĩnh điện có thể khử được các ion bằng cách trung hoà chúng. Một số thiết bị chống tĩnh điện thông dụng là: thanh khử tĩnh điện, vòi phun chống tĩnh điện, súng chống tĩnh điện, dao khí, quạt ion, bộ nạp tĩnh điện, vòng tay tĩnh điện, dây nối đất… (antistatic bar, ionizing nozzle, ionizing gun, air knife, ionizing blower, charging, wrist trap…).

Để chống tĩnh điện cho một hệ thống máy in, người ta gắn những thanh khử tĩnh điện lên một số vị trí để nó trung hoà các ion tạo ra từ giấy trong quá trình cọ xát, xả cuộn, sấy khô…

Để chống tĩnh điện trong quá trình sơn, người ta sử dụng quạt ion hoặc thanh khử tĩnh điện gắn ở vị trí gần nơi phun sơn để những thiết bị này khử ion trong các hạt sơn. Do không bị nhiễm tĩnh điện, các hạt sơn bám chắc chắn vào bề mặt hạt cần sơn, tạo nên lớp sơn thẩm mỹ hơn.

Và còn nhiều ứng dụng nữa của các dụng cụ chống tĩnh điện trong việc chống lại tĩnh điện gây thiệt hại cho sản xuất và cuộc sống con người

Hỗ trợ mua hàng

Với đội ngũ kỹ thuật tốt, chúng tôi sẽ tư vấn cho bạn tất cả các yếu tố để có thể tạo nên một sản phẩm tốt nhất cho bạn.

Khi nhận được yêu cầu từ bên bạn, chúng tôi sẽ cho kỹ thuật xuống trao đổi, đo đạc, khảo sát và cùng nhau xây dựng nên ý tưởng tốt nhất cho nhu cầu hiện tại của bạn. Sau đó chúng tôi sẽ lên bản thiết kế và được gửi lại cho bên bạn nhằm xác nhận các bước cuối cùng để trước khi đưa vào sản xuất.

Hãy gọi điện hoặc gửi mail cho chúng tôi khi bạn có bất cứ yêu cầu nào:

Thông tin liên hệ:

Công ty TNHH SX – Cơ khí Thành Lộc

Hotline: 

Email: 

Sự hợp tác với quý công ty là niềm vinh hạnh của chúng tôi.

Trân trọng!