Author - Cokhithanhloc Việt Nam

Phần mềm tra thép hình

Phần mềm tra thép hình là phần mềm cơ khí rất hữu dụng với những người làm kỹ thuật. Phần mềm được phát triển bởi tác giả “Trần Quốc Toản”, với điều khoản sử dụng và chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Đây là phần mềm rất hữu dụng cho các bạn là kỹ sư, những người kỹ thuật, hoặc những người đã ngồi trên ghế nhà trường dùng để tra cứu các thông số của các loại thép hình như U, I, V, H, T….

Phần mềm tra thép hình dùng trong sản xuất gia công inox.

Phần mềm tra thép hình dùng trong sản xuất gia công inox.

Trong quá trình hoạt động sản xuất, các sản phẩm phải được thiết kế và tính toán đầy đủ khối lượng, chủng loại vật tư từ khâu thiết kế. Dù là bạn sản xuất bàn thao tác, sản xuất băng tải, gia công inox hay thi công nhà xưởng, nhà thép tiền chế… thì khâu dự toán thiết kế luôn luôn phải được quan tâm tới trước tiên.

Phần mềm tra thép hình sẽ giúp bạn được rất nhiều trong việc hỗ trợ dự toán, bạn có thể tra được rất nhiều loại thép khác nhau, đặc biệt đây là công cụ rất hữu dụng để bạn lên khối lượng nhằm báo giá được sản phẩm tốt nhất.

Khi bạn nhận được yêu cầu sản xuất tủ inox, bàn thao tác công nghiệp… thì đây chính là phần mềm đầu tiên bạn ưu tiên để sự dụng.

Bạn hãy download tại: https://www.mediafire.com/file/ucahmx4ex7j83u3/Setup+TSTH+2.0.0+Pro.exe

Cảm ơn tác giả vì đã dày công nghiên cứu và viết ra phầm mềm tra thép hình miễn phí và hữu ích này.

Nếu link này không sử dụng được, bạn hãy để lại comment, tôi sẽ up lại cho bạn, vì sử dụng mediafire thi thoảng bị chết link.

Chúc các bạn thành công.

Ngành cơ khí chế tạo: Tính chuyện lâu dài

Để thoát kiếp gia công, một số doanh nghiệp Việt Nam đang đi từng bước nhỏ để được chen chân vào chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn lớn trên thế giới.

Ba câu chuyện dưới đây khắc họa những nét tươi sáng cho triển vọng kiến tạo vị thế mới của ngành cơ khí chế tạo Việt Nam.

Câu chuyện thứ nhất

Hợp tác với các đối tác lớn trong ngành chế tạo cơ khí, công nghiệp nặng trên thế giới như GE, Mitsubishi Heavy, Hyundai… để từng bước tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu của những tên tuổi này là một định hướng lâu dài đang được Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) đeo đuổi.

Ông Lê Văn Tuấn, Tổng Giám đốc Lilama tâm sự: “Lâu nay Lilama đã là đối tác, là nhà thầu phụ có năng lực và được tin cậy của nhiều doanh nghiệp nước ngoài, nhưng chúng tôi ý thức là phải nâng tầm những mối quan hệ này. Làm được vậy sẽ giúp mình trưởng thành nhanh và bài bản hơn”.

Cũng là nhà thầu phụ, nhưng với lĩnh vực hoạt động là cơ khí chế tạo và lắp máy, việc các nhà thầu nước ngoài tìm đến với Lilama chính là bởi trình độ tay nghề của người thợ.

Còn nhớ, tại dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất – dự án đòi hỏi rất cao về chất lượng, những người thợ hàn của Lilama với chứng chỉ nghề bậc cao đã làm hài lòng các nhà thầu ngoại ở các gói thầu đường ống dẫn sản phẩm hay các bể chứa xăng dầu. Không ít chi tiết cơ khí phi tiêu chuẩn của công trình cũng đã được gia công, chế tạo tại các nhà máy của Lilama.

Ngoài việc cử cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật theo học các khóa chuyên sâu nâng cao, tiếp thu công nghệ mới tại các trường đào tạo ở trong nước và nước ngoài, Lilama còn mạnh dạn bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để mua thiết bị hiện đại cho các nhà máy cơ khí, chế tạo để tự gia công các sản phẩm cơ khí chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn của những nước có nền công nghiệp tiên tiến như Anh, Mỹ, Nhật Bản, Ðức…

“Có những đối tác như GE đã khảo sát năng lực của các doanh nghiệp thuộc Lilama để tiến tới đặt các đơn hàng, mở rộng sản xuất của họ tại Việt Nam. Đơn hàng thì không thiếu, nhưng Lilama hướng tới các đơn hàng chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn hơn để tiến bước sâu hơn vào ngành công nghiệp cơ khí thế giới”, ông Tuấn cho biết.

co-khi-lau-dai

Câu chuyện thứ hai

Cũng không nề hà các đơn hàng giản đơn thủa ban đầu, ông Trần Bá Dương, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Ôtô Trường Hải (Thaco) cho hay, Thaco nhận cung cấp thùng xe cho một số dòng xe tải nhãn hiệu Kia khi xuất khẩu sang thị trường khu vực, bởi chi phí ở Việt Nam rẻ hơn so với Hàn Quốc.

Khác với nhiều người quan niệm “rẻ thì không làm”, ông Dương lại nghĩ, Việt Nam mới khởi đầu ngành công nghiệp ôtô thì phải biết chấp nhận đi từ những bước thấp nhất để tiến dần lên trình độ cao hơn, thay vì lao ngay vào công nghệ cao, phức tạp và đòi hỏi vốn đầu tư lớn.

Một số công ty con của Thaco trong các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ của ngành ôtô cũng đã được thành lập để cung cấp linh phụ kiện cho xe ôtô nhãn hiệu Kia và Thaco khi sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam.

Dĩ nhiên, Thaco Group không dừng lại ở việc gia công, chế tạo các chi tiết đơn giản. Ước mơ về một khu công nghiệp cơ khí ôtô tại Khu kinh tế mở Chu Lai vẫn đang được ông Dương kiên trì triển khai từng bước.

Hiện nay, Thaco đang đầu tư vào sản xuất động cơ, trước mắt là cho xe tải, với bản quyền công nghệ được cung cấp bởi Kia Motor, nhằm gia tăng giá trị sản xuất tại Việt Nam.

Câu chuyện thứ ba

Phấn đấu đưa Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu cũng là câu chuyện tại Alstom. Đã có 4 hợp đồng cung cấp thiết bị cơ điện cho các dự án nhiệt điện khí tại Trung tâm Điện lực Phú Mỹ những năm 2000, Alstom đang tiếp tục gia tăng sự có mặt của mình ở Việt Nam thông qua các dự án thủy điện lớn như Sơn La, Lai Châu.

Thành công về đích sớm 3 năm của Nhà máy thủy điện Sơn La với công suất 2.400 MW – lớn nhất Đông Nam Á – đã nâng thương hiệu Alstom trong vai trò nhà cung cấp thiết bị cơ điện thêm nhiều cấp. Tuy nhiên, mối quan tâm của Alstom tại Việt Nam không chỉ đơn thuần là bán thiết bị cho các nhà máy điện.

Vào tháng 5/2012, Alstom đã bắt tay với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) để thành lập Liên doanh Dịch vụ Năng lượng Alstom – Phú Mỹ, cụ thể là xây dựng một xưởng sửa chữa tua-bin khí hiện đại tại Trung tâm điện lực Phú Mỹ, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Đây là xưởng sửa chữa tua-bin khí đầu tiên tại Việt Nam và cũng là công xưởng đầu tiên của Alstom tại khu vực châu Á trong lĩnh vực này.

Một quan chức của Alstom Việt Nam cho hay, các tua-bin khí có cánh phủ gốm, khi hoạt động trong điều kiện nhiệt độ cao 1.000 độ C sẽ phải mang ra kiểm tra và bảo dưỡng. Việc bóc lớp gốm ra, kiểm tra lớp thép rồi bọc phủ lại, khoan lại các đường làm mát của cánh tua-bin là công việc được xếp vào hàng công nghệ cao, đa phần làm bằng robot.

Vì vậy, quyết định chuyển xưởng này sang Việt Nam là để phục vụ thị trường châu Á – Thái Bình Dương chứ không chỉ riêng Việt Nam, không đơn thuần là vì để có giá rẻ, mà còn mang những ý nghĩa chiến lược nhất định đối với ngành công nghiệp của Việt Nam.

“Năm 2013, xưởng sửa chữa này sẽ đi vào hoạt động, tạo thêm công ăn việc làm mới, thêm các đơn hàng xuất khẩu, đóng góp cho nước sở tại. Có thể quy mô ban đầu nhỏ nhưng sẽ nâng dần trong tương lai, đặc biệt tạo ra những động lực nhất định cho ngành công nghiệp địa phương trong việc tham gia vào dây chuyền sản xuất toàn cầu của các tập đoàn lớn”, vị quan chức của Alstom Việt Nam nói.

Ði xa bằng những bước nhỏ

Nhìn nhận những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải thẳng thắn thừa nhận: cạnh tranh đã ngay ở đầu nhà rồi. Nếu doanh nghiệp trong nước không đáp ứng được, sẽ buộc phải mở cửa cho doanh nghiệp bên ngoài vào. Lúc đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải làm thuê ngay trên chính thửa ruộng của mình, trong chính lĩnh vực mà mình vẫn được biết đến là có lợi thế.

Muốn biết mình đang ở đâu, doanh nghiệp Việt Nam phải so sánh với các tập đoàn cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực trên thế giới, chứ không thể bằng lòng với những gì mình đang có. “Người Việt Nam cần cù, thông minh, nhưng nếu không biết cúi đầu xuống để học và tiến lên thì vẫn luôn thua”, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhắn nhủ.

Thực trạng các doanh nghiệp sản xuất cơ khí hiện nay

Theo kết quả đánh giá hiện trạng công nghệ ngành cơ khí chế tạo của các cơ sở doanh nghiệp nhỏ hiện nay, máy thiết bị tự động trong các doanh nghiệp cơ khí hiện nay vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 15% và những thiết bị này phát huy tác dụng cũng rất hạn chế trong các dây chuyền sản xuất do tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất không cao. Theo số liệu thống kê, hiện nay trong các doanh nghiệp cơ khí sử dụng trên 70% máy công cụ vạn năng. Do đó, khả năng gia công chính xác và đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định của các dây chuyền sản xuất cơ khí còn thấp.

Quy mô nhỏ lẻ, sản xuất manh mún, năng lực hạn chế, sản phẩm làm ra đơn điệu, thiếu sức cạnh tranh trên thị trường… đó là thực trạng chung của ngành nghề cơ khí trên địa bàn tỉnh hiện nay. Các cơ sở này đều  có quy mô nhỏ theo kiểu hộ gia đình, số lượng lao động ít, hầu hết là làm cơ khí gia công chỉ thực hiện được một số công việc và sản xuất những thiết bị đơn giản như gò hàn, làm cửa sắt, chế tạo đường ống áp lực, cán tôn và sản xuất ra các dụng cụ cầm tay như cuốc, xẻng, dao và các đồ gia dụng khác….phục vụ cho sản xuất và đời sống sinh hoạt.

san-xuat-co-khi

Các doanh nghiệp, cơ sở cơ khí đang hoạt động cũng gặp phải rất nhiều khó khăn do ngành nghề này đòi hỏi lượng vốn đầu tư ban đầu khá lớn, chu kỳ sản xuất dài, vòng quay vốn chậm, lợi nhuận thấp, việc thu hồi vốn lâu, trong khi năng lực tài chính của các cơ sở trên địa bàn tỉnh đều yếu. Hiện nay, hoạt động sản xuất của ngành cơ khí khá èo uột, hầu như chỉ thực hiện gia công một số sản phẩm đơn giản chứ không sản xuất được ra phôi hay chế tạo khuôn mẫu. Máy móc, công nghệ của ngành cơ khí nhìn chung rất lạc hậu nên không chế tạo được ra các loại máy móc, thiết bị có giá trị cao; sản phẩm đơn điệu, chưa hình thành được nhóm sản phẩm chủ lực đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường, ngay cả những sản phẩm thủ công cũng khó cạnh tranh với sản phẩm nhập về từ nơi khác do giá thành cao, mẫu mã không đẹp trong khi các công trình, nhà máy ngày càng đòi hỏi các loại hàng hoá phức tạp, có mức độ tinh xảo cao nên khó đáp ứng được… . Bên cạnh đó, trình độ kỹ thuật của người lao động đều hạn chế, không được đào tạo bài bản mà thường là tự học nghề nên không đáp ứng những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao, khả năng sản xuất tập trung, trình độ chuyên môn hóa của các doanh nghiệp và cơ sở này chưa cao. Chính vì vậy, hiệu quả kinh tế mà ngành cơ khí mang lại còn thấp. Chính vì thế,  bài toán về cạnh tranh, tồn tại và phát triển luôn là một thách thức lớn.

Việc tìm hướng đi cho ngành cơ khí thực sự là một bài toán khó với cả ngành chức năng và các địa phương. Ngành Công thương nên định hướng được cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tham gia chế tạo, gia công một số phần đơn giản trong chuỗi giá trị sản xuất cơ khí. Những mặt hàng đó không chỉ phù hợp với với năng lực thực tế của các cơ sở trên địa bàn tỉnh mà nhu cầu của thị trường cũng khá cao. Bên cạnh đó, Trung tâm Khuyến công sử dụng các nguồn vốn khuyến công để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cơ khí giúp tháo gỡ một phần khó khăn về tài chính, tạo động lực đổi mới thiết bị máy móc… Còn việc duy trì và phát triển chủ yếu vẫn phải do các cơ sở tự vận động. Đồng thời, mỗi doanh nghiệp, cơ sở cơ khí cũng cần nâng cao nhận thức về phát triển thị trường, tranh thủ nguồn vốn lãi suất thấp hiện nay để đầu tư nâng cao trình độ công nghệ đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường quảng bá, giới thiệu và mở rộng thị trường…

Hợp tác Việt–Nhật để phát triển công nghiệp phụ trợ: Cơ hội DN khai thông “điểm nghẽn”

Theo các chuyên gia, chủ trương, chiến lược đã quá rõ ràng, “không ôm đồm” quá nhiều, chỉ tập trung ưu tiên 6 ngành dựa trên những tiêu chí cụ thể, điều quan trọng là hành động của các Bộ, ngành, đặc biệt là các DN để tận dụng cơ hội thế mạnh công nghiệp của Nhật Bản “tạo đà” phát triển công nghiệp VN cho phù hợp …

cong-nghiep-phu-tro_1

Ở lĩnh vực điện tử, hiện nay các DN điện tử nội địa chủ yếu lắp ráp một số sản phẩm đơn giản và gần như nhập khẩu toàn bộ linh kiện

Cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu

Theo các chuyên gia, 6 ngành được lựa chọn đều là những ngành có số lượng DN khá lớn, đóng góp đáng kể vào nền kinh tế. Tuy nhiên, điều đáng nói là hiện nay các DN vẫn chưa phát huy được hết thế mạnh, chủ yếu vẫn chỉ làm ở dạng thô hoặc gia công nên tỉ suất lợi nhuận chưa cao. Chẳng hạn ở lĩnh vực điện tử, hiện nay các DN điện tử nội địa chủ yếu lắp ráp một số sản phẩm đơn giản và gần như nhập khẩu toàn bộ linh kiện. Ngành công nghiệp phụ trợ sản xuất phụ tùng linh kiện để cung cấp cho công nghiệp điện tử trong nước không đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Trong khi đó, nhiều sản phẩm điện tử nhập khẩu nguyên chiếc có giá rẻ hơn hàng lắp ráp trong nước. Do sức cạnh tranh yếu nên các DN điện tử VN có số lượng sản phẩm không nhiều, lợi nhuận thấp, thậm chí thua lỗ, nên khả năng đầu tư công nghệ mới bị hạn chế.

Với thực tế như vậy, các chuyên gia cho rằng, việc Nhật Bản hỗ trợ VN phát triển ngành công nghiệp phụ trợ nói chung, điện tử nói riêng chắc chắn sẽ là một cơ hội để các DN VN có thể phát triển. Chẳng hạn, trong giai đoạn tới, ngoài việc sản xuất hoàn chỉnh một số loại sản phẩm như tủ lạnh, điều hòa, máy giặt…, các DN điện tử VN nên phát triển theo hướng cố gắng tham gia ở mức cao nhất vào chuỗi cung ứng của các DN Nhật đã có thương hiệu và thị trường toàn cầu để nâng cao trình độ sản xuất và làm chủ công nghệ. Khi tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn, trong điều kiện giá nhân công không còn là lợi thế cạnh tranh, cần tận dụng giá nguyên liệu đầu vào rẻ để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.

Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Trương Thanh Hoài – Phó Vụ trưởng – Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương cho rằng, để tận dụng cơ hội phát triển công nghiệp điện tử, các DN cần phải triển khai một số giải pháp, chẳng hạn phát triển công nghệ vật liệu, luyện kim, cao su, hóa chất, nhựa và công nghệ gia công. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của các Hiệp hội trong việc liên kết giữa nhà sản xuất chính với các nhà thầu phụ, giữa các nhà thầu phụ với nhau, giữa các DN FDI với các DN nội địa.

Cùng quan điểm, ông Thân Dĩ Ngữ – Giám đốc Cty TNHH Ecolink đưa ra ví dụ ở ngành chế biến nông sản, thực phẩm, ông Dĩ cho rằng hiện nay cơ sở hạ tầng của ngành này đang thiếu hụt, chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ. Trong đó, nguồn cung năng lượng, đường giao thông, hạ tầng xử lý chất thải chưa đáp ứng yêu cầu của các DN chế biến thực phẩm, thiếu công nghiệp phụ trợ, thiếu kỹ năng mềm. Do vậy, các DN cần tận dụng cơ hội này để để phát triển, chuyển sang sản phẩm có hàm lượng công nghệ, sáng tạo, khác biệt và có giá trị hàm lượng gia tăng cao. Liên kết dọc chuỗi (thiết lập chuỗi liên kết với nông dân), liên kết ngang (cùng nhau đầu tư và khai thác công nghệ)…

Đầu ra cho công nghiệp phụ trợ

Tuy nhiên, theo ông Đinh Mạnh Hùng, Phó giám đốc Trung tâm hỗ trợ DNNVV (VCCI) bên cạnh những cơ sở hạ tầng, nguồn nguyên liệu, sản phẩm, công nghệ… thì một trong những “điểm nghẽn” khác của các DN trong 6 ngành công nghiệp trên hiện nay chính là đầu ra. Bởi cho dù chiến lược có khả thi đến đâu nếu không có thị trường thì khó lòng thuyết phục DN làm.

“Việc tiếp cận căn bản nhất của chiến lược phải là nghiên cứu thị trường, đây chính là “chìa khóa” thành công của chiến lược này trong tương lai” – ông Hùng quả quyết. Ví dụ, trong lĩnh vực điện tử, khi phát triển ngành này cần nghiên cứu xem năng lực hợp tác của các DN điện tử VN và Nhật Bản hiện đang ở đâu? Vai trò của sản xuất máy in trong ngành công nghiệp điện tử khá lớn, nhưng hiện nay chủ yếu là lắp ráp, vậy phải làm thể nào để tăng giá trị gia tăng, cần phải làm thế nào để đưa các DN công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản vào VN

Theo ông Hùng, những điều này các DN VN có thể học kinh nghiệm của Nhật Bản. Những tổ chức như Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), JETRO đến VN và nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Họ đến tận địa phương để xác định làm công nghiệp hỗ trợ thì xây dựng ở đâu… Thí dụ, trước khi các DN Nhật Bản đầu tư vào hai khu công nghiệp ở Hải Dương và Đồng Nai, các tổ chức XTTM của nước này đã tìm hiểu và đưa ra những lời khuyên DN Nhật Bản và VN hợp tác để thành lập các khu sán xuất công nghiệp hỗ trợ. Sau đó, một Cty Nhật có ý định xây dựng khu công nghiệp Đại An thành khu công nghiệp hỗ trợ để lôi kéo các nhà đầu tư  lĩnh vực này của Nhật vào VN, hướng tới cung cấp phụ tùng choc ác DN Nhật Bản đang lắp ráp máy in ở VN. Để thực hiện mục tiêu trong khu công nghiệp đó có 150 DN Nhật Bản sẽ đầu tư, người ta đã gửi 4.500 câu hỏi tới bốn TP của Nhật có thế mạnh về ngành này. Nội dung chính là hỏi các DN nếu sang VN thì cần gì, có khó khăn gì. “Điều đó cho thấy Nhật Bản làm nghiên cứu thị trường rất căn bản” – ông Hùng quả quyết.

Trong khi đó, ông Ichikawa – Trưởng nhóm nghiên cứu công nghiệp hỗ trợ VN tại Nhật Bản, đối với các nhà đầu tư Nhật Bản, thách thức lớn nhất hiện nay đối với họ chính là công nghiệp hỗ trợ. Theo vị chuyên gia này, lợi ích của công nghiệp hỗ trợ là mang lại giá trị gia tăng cao. Song ở VN, dù là nước có nhiều điểm mạnh về XK, nhưng nền công nghiệp hỗ trợ lại phát triển chậm, do đó lợi nhuận thu về không tương xứng.“Dường như các DN VN vẫn chưa tận dụng được thế mạnh này”, ông Ichikawa khẳng định.

Và nâng tỷ lệ nội địa hóa

Ông Phạm Chí Trung, hội tự động hóa Hà Nội nhận định, nền công nghiệp VN đang rất cần nguồn công nghiệp phụ trợ lõi như của Nhật Bản, DNVN nên tận dụng thế mạnh này của Nhật, để tăng tỉ lệ nội địa hóa. Bởi nếu chỉ trông chờ vào vốn đầu tư hay vốn ODA của Nhật thì sẽ chỉ là nới XK hộ và sẽ phải trả giá rất đắt. Ví dụ, sản xuất điện tử của hãng Samsung tại VN, mục tiêu tỉ lệ nội địa hóa là 40% nhưng hiện nay mới chỉ đạt được 20%, chủ yếu là sản xuất bao da. “Vì vậy, cần phải đặt ra chiến lược nội địa hóa hết sức cụ thể thì mới thành công” Ông Trung nói.

Đồng tình với quan điểm của ông Trung, ông Đinh Xuân Bá ví dụ thêm về tỉ lệ nội địa hóa của ngành may mặc cũng chỉ được hơn 10%, theo ông tiếng là XK hơn 10 tỉ USD nhưng thực ra chỉ lãi được hơn 1 tỉ. Ông Bá ví von: “VN không chỉ may áo mà may cả ôtô, tàu…”.

Những lo ngại của các chuyên gia, DN về việc các DN sẽ tận dụng cơ hội trong chiến lược hợp tác công nghiệp VN – Nhật Bản không phải là không có lý, ngay bản thân phía Nhật cũng lo ngại kế hoạch hành động đang vướng vào một số khó khăn, như nguồn lực hạn chế, các biện pháp toàn diện thực hiện chính sách công nghiệp chưa rõ… Nhưng nếu nhìn vào thực tế thì cả 6 ngành này vừa là ưu tiên phát triển của VN, song cũng chính là các lĩnh vực mà DN Nhật Bản đang muốn đẩy mạnh đầu tư vào VN, trong đó đã có những tên tuổi hàng đầu của Nhật đang đầu tư vào VN như: Acecook, Kyoei Food, Honda, Toyota… Thì có thể thấy rất rõ cơ hội cho cả DN VN và Nhật Bản còn rất lớn, đặc biệt với các DN VN nếu biết tận dụng chắc chắn sẽ mang lại thành công và chắc chắn sẽ là không khó để thu hút thêm những tên tuổi khác đầu tư vào VN nếu ngay từ đầu thực hiện, các Bộ, ngành DN khai thông được những “điểm nghẽn” trên.

(trích nguồn: dddn.com.vn)

Thiếu công nghiệp phụ trợ: Nhà đầu tư nước ngoài gặp khó

Đã được cảnh báo trước về nên công nghiệp phụ trợ

Cách đây hơn 6 năm, trước thềm Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, chính JETRO đã tổ chức một cuộc khảo sát, đánh giá và công bố: Việt Nam là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu Á theo định hướng kinh doanh trong vòng 5-10 năm tiếp theo.

Tại thời điểm đó, các nhà sản xuất Nhật Bản tại Việt Nam rất tin tưởng vào triển vọng tăng doanh thu xuất khẩu, trong khi các DN phi sản xuất thì kỳ vọng doanh thu sẽ liên tục được cải thiện nhờ mở rộng thị trường ở Việt Nam. Đã có tới 92,6% công ty sản xuất và 88% công ty phi sản xuất Nhật Bản trong diện điều tra cho biết có kế hoạch mở rộng hoạt động tại Việt Nam trong vòng 1-2 năm sau đó. Đây là tỷ lệ cao nhất trong số 11 quốc gia và vùng lãnh thổ được đưa ra trưng cầu ý kiến DN Nhật Bản lúc bấy giờ.

Tuy nhiên, ngay tại thời điểm đáng lạc quan như vậy, Jetro cũng chính thức cảnh báo Việt Nam đang có những dấu hiệu thua kém các nước ASEAN khác về khả năng phụ trợ công nghiệp, cung cấp nguyên liệu, phụ tùng trong nước và cơ sở hạ tầng kém phát triển. Nếu Việt Nam không có những chính sách đầu tư phát triển hợp lý, nâng cao dịch vụ hỗ trợ, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, thì trong nhiều năm tiếp theo ngôi vị quán quân sẽ mất dần vào tay các nước khác trong khu vực và việc “rút lui” của các DN đầu tư nước ngoài sẽ là điều khó tránh khỏi.

Ông Katsuyoshi – Tổng giám đốc Công ty Canon Việt Nam giãi bày: “Trên thị trường quốc tế, năm 2009, Canon đã đạt tỷ lệ nội địa hóa các loại máy in là 52% và đến năm 2013 là 67%. Tuy nhiên, Việt Nam chủ yếu vẫn là gia công, nguyên liệu sản xuất và linh kiện vẫn phải nhập khẩu nên tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt 30%. Trong năm 2012, Canon đã tiếp cận với 147 nhà cung cấp linh kiện tại Việt Nam nhưng kết quả chỉ chọn được có 6 doanh nghiệp làm đối tác”.

Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam hiện chưa có các DN sản xuất những linh kiện phục vụ cho máy in như tấm thép mạ mỏng, chất bán dẫn… Một số sản phẩm khác có nhưng chất lượng không đạt yêu cầu, chẳng hạn như nguyên liệu nhựa, nhựa chống tĩnh điện khi thử nghiệm bị biến dạng tới 30%, hay cao su dùng trong máy in ngoại vi không đáp ứng được yêu cầu khi thử nghiệm, dẫn đến dễ bị hỏng, vỡ. Sản xuất khuôn mẫu cũng vậy, có gia tăng số lượng nhà cung cấp, nhưng DN Việt Nam chỉ chiếm khoảng 30% trong số các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) khác.

Các chuyên gia còn nhận định: Không chỉ các DN Nhật Bản gặp khó tại Việt Nam do thiếu ngành công nghiệp phụ trợ mà ngay cả với các nhà sản xuất đến từ nhiều nước khác đang đầu tư tại Việt Nam cũng lâm vào tình cảnh tương tự.

Cần chính sách đồng bộ và thiết thực

Ông Đỗ Mạnh Hồng, hiện đang công tác tại Đại học Obirin (Tokyo, Nhật Bản) và là chuyên gia nghiên cứu lâu năm về lĩnh vực này cho biết: Việc ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam suốt hơn một thập niên qua không thoát khỏi trạng thái bùng nhùng là do ba nguyên nhân:

Một là bản thân chính sách hỗ trợ thiếu rõ ràng, chỉ tập trung hỗ trợ một số DN nhà nước trong lĩnh vực này. Hai là tư tưởng hỗ trợ mang tính bảo hộ của các nhà làm chính sách, cùng thái độ trông chờ hỗ trợ của DN nhà nước. Thứ ba là tình trạng hoạt động riêng rẽ và thiếu chủ động yêu cầu hỗ trợ của khối DN tư nhân – nhân vật chính của cuộc chơi kinh tế thị trường và cũng là đối tượng chính cần hỗ trợ.

Một số chuyên gia chuyên nghiên cứu về lĩnh vực này cho biết: “Công nghiệp Việt Nam được ví như một cái cây, ngành công nghiệp phụ trợ chính là nước và các chất chăm bón để cây tốt tươi và phát triển. Tuy nhiên, nếu thiếu người quan tâm chăm sóc là Chính phủ và các bộ ngành thì cây khó có thể mà phát triển được. Nếu chỉ có DN tâm huyết với công nghiệp phụ trợ mà thiếu sự quan tâm từ phía Nhà nước thì chẳng bao giờ thành công”.

Một cán bộ thuộc Viện chiến lược Chính sách Công nghiệp (Bộ Công Thương) đã nhiều lần than thở: Ở các nước có ngành công nghiệp phụ trợ phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… công nghiệp hỗ trợ được phát động từ phía Chính phủ. Còn ở Việt Nam, nó lại được phát động từ giới nghiên cứu và DN. Trong quá xây dựng chính sách về công nghiệp hỗ trợ, chúng tôi đã gặp không ít sự “lạnh lẽo, nghiệt ngã” của những người có trách nhiệm.

Vị này còn cung cấp thêm: Kể từ khi Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Chính phủ ban hành về chính sách phát triển công nghiệp phụ trợ ra đời đến nay đã hơn 2 năm, nhưng chưa có dự án nào xin được ưu đãi. Có 2 dự án xin đã lâu nhưng vẫn chưa xong, có DN làm hồ sơ xin, nhưng thấy thủ tục quá phức tạp nên lại tự đầu tư. Một số chuyên gia về nền phụ trợ công nghiệp của Nhật Bản cũng nhận xét, Quyết định 12 quá chung chung và khó hiểu, các tiêu chí đều không rõ ràng vì vậy rất khó thực thi.

(trích nguồn: ddn.com.vn)